Vũ khí chiến tranh Việt Nam

Tác Giả: John Stephens
Ngày Sáng TạO: 1 Tháng MộT 2021
CậP NhậT Ngày Tháng: 17 Có Thể 2024
Anonim
Vũ khí chiến tranh Việt Nam - LịCh Sử
Vũ khí chiến tranh Việt Nam - LịCh Sử

NộI Dung

Từ sức mạnh không quân đến bộ binh đến hóa chất, vũ khí được sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam có sức tàn phá khủng khiếp hơn bất kỳ cuộc xung đột nào trước đây. Các lực lượng Hoa Kỳ và Nam Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào sức mạnh không quân vượt trội của họ, bao gồm máy bay ném bom B-52 và các máy bay khác đã thả hàng ngàn pound chất nổ vào các mục tiêu của Bắc Việt Nam và Cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Trong khi quân đội Hoa Kỳ và các đồng minh của họ sử dụng vũ khí chủ yếu do Mỹ sản xuất, thì lực lượng Cộng sản đã sử dụng vũ khí được sản xuất tại Liên Xô và Trung Quốc. Ngoài vũ khí pháo binh và bộ binh, cả hai bên còn sử dụng nhiều công cụ khác nhau để tiếp tục thực hiện mục tiêu chiến tranh của mình, bao gồm cả thuốc làm rụng lá hóa học hoặc thuốc diệt cỏ (ở phía Mỹ) và bẫy booby sáng tạo sử dụng gậy tre hoặc nỏ được mài giũa Phía Bắc Việt-Việt Cộng).


Chiến tranh Việt Nam: Vũ khí của không khí

Cuộc chiến đã chứng kiến ​​Không quân Hoa Kỳ và các đồng minh Nam Việt Nam của họ bay hàng ngàn nhiệm vụ ném bom tầm thấp ở Bắc và Nam Việt Nam cũng như các địa điểm hoạt động của Cộng sản bị nghi ngờ ở nước láng giềng Lào và Campuchia. Máy bay ném bom hạng nặng B-52, do Boeing phát triển vào cuối những năm 1940, đã giúp Mỹ và Nam Việt Nam thống trị bầu trời, cùng với các máy bay chiến đấu nhỏ hơn, dễ điều khiển hơn như F-4 Phantom. Cũng được sử dụng rộng rãi là máy bay trực thăng Bell UH-1, được đặt tên là Hue Huey, có thể bay ở độ cao và tốc độ thấp và hạ cánh dễ dàng trong không gian nhỏ. Các lực lượng Hoa Kỳ đã sử dụng Huey để vận chuyển quân đội, vật tư và thiết bị, viện trợ cho lực lượng bộ binh với hỏa lực bổ sung và sơ tán những người lính bị thương hoặc bị thương.


Bạn có biết không? Súng trường M-16 do Mỹ sản xuất được thiết kế lại vào năm 1966 để hoạt động tốt hơn trong điều kiện ẩm ướt, bẩn thỉu trong chiến đấu trên mặt đất trong Chiến tranh Việt Nam, và nó trở thành vũ khí phổ biến nhất liên quan đến quân đội Hoa Kỳ trong cuộc xung đột.

Trong số các chất nổ có sức tàn phá khủng khiếp hơn được sử dụng trong các cuộc ném bom của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam là napalm, một hợp chất hóa học được phát triển trong Thế chiến II. Khi trộn với xăng và được bao gồm trong bom gây cháy nổ hoặc súng phun lửa, napalm có thể được đẩy khoảng cách lớn hơn xăng và giải phóng một lượng lớn carbon monoxide khi phát nổ, gây độc cho không khí và gây ra thiệt hại thậm chí còn lớn hơn cả bom truyền thống. Mặc dù các nỗ lực bắn phá trên không quy mô lớn của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đã làm hư hại hoặc phá hủy phần lớn đất đai và dân số của Việt Nam, nhưng chúng tỏ ra ít tàn phá đối phương hơn dự kiến, vì quân đội Bắc Việt và Việt Cộng đã chiến đấu theo kiểu chiến tranh du kích bất thường đã chứng minh kiên cường hơn nhiều so với người Mỹ đã hy vọng.


Vũ khí Pháo binh & Bộ binh Hoa Kỳ và Nam Việt Nam

Xe tăng M-48, với súng máy được gắn, có thể di chuyển tới 30 dặm / giờ và được sử dụng để hỗ trợ cho quân đội Hoa Kỳ và Nam Việt Nam. Do địa hình rừng rậm Việt Nam sũng nước, xe tăng không được sử dụng rộng rãi trong chiến đấu trong Chiến tranh Việt Nam. Các tàu sân bay bọc thép như M-113 đã vận chuyển binh lính và thực hiện các chức năng trinh sát và hỗ trợ.Một vũ khí pháo thông dụng, trước đây được sử dụng trong Thế chiến II, là pháo hạm 105mm, có thể được kéo phía sau một chiếc xe tải hoặc mang theo bằng trực thăng và rơi vào vị trí. Được điều hành bởi phi hành đoàn gồm tám người mỗi người, các pháp sư đã bắn đạn pháo nổ mạnh hoặc hộp đạn tổ ong (hàng ngàn phi tiêu nhỏ, sắc bén) với tốc độ ba đến tám viên đạn mỗi phút trong phạm vi khoảng 12.500 yard.

Một trong những vũ khí bộ binh phổ biến nhất được sử dụng bởi quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam là súng máy M-60, cũng có thể được sử dụng làm vũ khí pháo khi được gắn hoặc vận hành từ trực thăng hoặc xe tăng. M-60 chạy bằng khí có thể bắn tới 550 viên đạn liên tiếp ở cự ly gần 2.000 thước, hoặc ở tầm ngắn khi bắn từ vai. Một nhược điểm của M-60 là trọng lượng nặng của đai đạn, nó hạn chế đạn mà binh sĩ có thể mang theo. Vấn đề tiêu chuẩn cho lính bộ binh ở Việt Nam là M-16, một khẩu súng trường được trang bị khí đốt, có thể bắn đạn 5,56 mm chính xác trên hàng trăm thước với tốc độ 700-900 viên / phút trên thiết lập tự động; nó cũng có thể được sử dụng như một bán tự động. Đạn của nó xuất hiện trên các tạp chí 20-30 viên, khiến việc nạp đạn tương đối dễ dàng.

Vũ khí Bắc Việt và Việt Cộng tại Việt Nam

Hầu hết vũ khí, đồng phục và thiết bị được sử dụng bởi lực lượng Bắc Việt và Việt Cộng đều do Liên Xô và Trung Quốc sản xuất. Tên lửa SA-7 Grail cầm tay, đeo vai là một trong nhiều vũ khí phòng không chống lại máy bay Mỹ tiến hành các cuộc ném bom ở miền Bắc Việt Nam. Trên mặt đất, súng máy hạng nhẹ DP 7.62mm (tương đương với M-60 do Mỹ sản xuất) dựa trên thiết kế của Liên Xô và được sản xuất ở cả Liên Xô và Trung Quốc. Súng AK-47 đơn giản nhưng chính xác đến chết người, được nhiều người gọi là súng trường nông dân, một loại súng ngắn và nặng hơn M-16, với tốc độ bắn thấp hơn (lên tới khoảng 600 viên mỗi phút). Tuy nhiên, nó có độ bền cực cao và có thể bắn đạn 7.62mm tự động hoặc bán tự động từ một clip 30 viên với tốc độ lên tới khoảng 600 viên mỗi phút, trong phạm vi lên tới 435 yard. Một khẩu súng trường bán tự động khác được sử dụng rộng rãi là súng carbine SKS hoặc của Chic Chicom. "

Ngoài vũ khí do Liên Xô hoặc Trung Quốc cung cấp, các lực lượng Cộng sản cũng mang theo vũ khí bắt được từ Pháp và Nhật Bản trong các cuộc chiến tranh Đông Dương trước đó hoặc sử dụng vũ khí làm bằng tay tại Việt Nam. Quân đội trong Quân đội Bắc Việt (NVA) hay Quân đội Nhân dân Việt Nam (PAVN) được tiếp cận với quần áo và vũ khí có vấn đề tiêu chuẩn hơn, trong khi Việt Cộng thường sử dụng vũ khí ngẫu hứng và mặc quần áo nông dân để hòa nhập với dân chúng miền Nam.

Vũ khí khác được sử dụng tại Việt Nam

Ngoài súng trường và súng máy, quân đội bộ binh Hoa Kỳ được trang bị lựu đạn cầm tay (như Mark-2), có thể ném hoặc đẩy bằng súng phóng gắn trên súng trường. Mỏ được sử dụng để bảo vệ chu vi xung quanh khu cắm trại; chúng có thể được kích hoạt bởi các dây ngắt hoặc phát nổ bằng tay. Về vũ khí hóa học, các máy bay của Không quân Hoa Kỳ đã phun hơn 19 triệu gallon thuốc diệt cỏ trên 4,5 triệu mẫu đất ở Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1972 như một phần của Chiến dịch Ranch Hand, một chương trình phá rừng quy mô lớn nhằm loại bỏ rừng che phủ cho miền Bắc Quân đội Việt Nam và Việt Cộng, cũng như các loại cây trồng có thể được sử dụng để nuôi sống chúng. Chất gây rụng lá được sử dụng phổ biến nhất, hỗn hợp thuốc diệt cỏ có chứa chất độc Dioxin và được gọi là Chất độc màu da cam, sau đó được tiết lộ gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, bao gồm các khối u, dị tật bẩm sinh, phát ban, triệu chứng tâm lý và ung thư trở về quân nhân Mỹ cũng như trong số các bộ phận lớn của dân số Việt Nam.

Về phần mình, các lực lượng Bắc Việt và đặc biệt là Việt Cộng thường sử dụng chất nổ được bắt giữ từ các lực lượng của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hoặc cắt các quả bom chưa nổ để chế tạo chất nổ thô của riêng họ. Họ cũng sử dụng bẫy booby, bao gồm các chùy tre hoặc nỏ ẩn có thể được kích hoạt khi những người lính bước lên một sợi dây. Một mối đe dọa đặc biệt phổ biến là bẫy cổ phần chơi chữ, một chiếc cọc bằng tre được mài sắc được giấu trong một cái hố để binh lính địch vấp ngã.

Vào ngày 27 tháng 6 năm 1950, Tổng thống Harry . Truman tuyên bố rằng ông đang ra lệnh cho lực lượng không quân và hải quân Hoa Kỳ tới Hàn Quốc để hỗ ...

Kẻ khủng bố Illich Ramirez anchez, từ lâu được biết đến với cái tên Carlo the Jackal, bị bắt giữ tại Khartoum, udan, bởi các điệp viên Pháp. Vì không có hi...

ẤN PhẩM CủA Chúng Tôi